07:50 09/06/2025
Tài liệu tuyên truyền Dự án Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (sửa đổi)
07:50 09/06/2025
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
Ngày 26/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIII thông qua Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Sau 07 năm triển khai thi hành Luật, tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp tục đi vào ổn định và hoạt động hiệu lực, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định, thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên thời gian qua, đã có nhiều văn bản chỉ đạo mới của Đảng, Nhà nước liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, theo đó, tổ chức bộ máy của Công an nhân dân đã có các thay đổi như: không tổ chức Công an cấp huyện, sáp nhập một số đơn vị trong từng cấp công an… Bên cạnh đó, quá trình tổ chức thực hiện Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại nhất định và phát sinh những vấn đề mới cần sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục, giải quyết và nâng cao hiệu quả của công tác điều tra hình sự trên thực tế.
1. Cơ sở chính trị, pháp lý
- Ngày 25/10/2017, Hội nghị Trung ương 6 khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đề ra nhiệm vụ, giải pháp: “Tiếp tục nghiên cứu, từng bước sắp xếp thu gọn đầu mối cơ quan điều tra đáp ứng yêu cầu công tác điều tra hình sự, phòng, chống tội phạm và phù hợp với tổ chức, hoạt động của viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp”; Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khoá XII một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả thông qua chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy công an địa phương theo hướng “tỉnh toàn diện; xã vững mạnh, bám cơ sở”, không tổ chức công an cấp huyện.
- Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó xác định nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy bên trong của Công an đơn vị, địa phương tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có nội dung chỉ đạo: “Đổi mới, sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Xác định rõ hơn cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền tư pháp và giữa các cơ quan, tổ chức trong hoạt động tư pháp”.
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đề ra nhiệm vụ xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự, trong đó cần “Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo hướng tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao”.
- Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
- Nghị quyết số 190/2025/QH15 ngày 19/02/2025 của Quốc hội khoá XV quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó quy định cơ quan, người có thẩm quyền phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn để xử lý các văn bản chịu sự tác động do sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước.
2. Cơ sở thực tiễn
- Thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an đã tổ chức chỉ đạo, triển khai các chính sách trên trong công tác tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy Công an đơn vị, địa phương hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới. Ngày 18/02/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/2025/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, theo đó, đã có sự thay đổi về tổ chức của Bộ Công an, dẫn đến sự thay đổi về tổ chức của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân so với quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự hiện hành. Trong đó, Công an các địa phương tổ chức theo hướng sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, giảm tầng nấc trung gian, được tổ chức, xây dựng theo mô hình Công an địa phương gồm 02 cấp (Công an tỉnh, Công an xã và không tổ chức Công an cấp huyện). Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra của Công an nhân dân cũng được tổ chức theo mô hình gồm 02 cấp (Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh) và không tổ chức Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện.
- Ngày 24/02/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2025/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính, theo đó Tổng cục Hải quan được tổ chức thành Cục Hải quan và sắp xếp, cơ cấu lại các Cục Hải quan khu vực thành các Chi cục Hải quan khu vực; các Chi cục Hải quan cửa khẩu/ngoài cửa khẩu trực thuộc Chi cục Hải quan khu vực là tổ chức tương đương cấp đội.
- Ngày 22/12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 105/2022/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong đó đã quy định: Cục Kiểm lâm là đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được tổ chức trên cơ sở sắp xếp, kiện toàn lại Tổng cục Lâm nghiệp; Cục Kiểm ngư là đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được tổ chức trên cơ sở sắp xếp, kiện toàn lại Tổng cục Thủy sản. Tiếp đó, ngày 25/02/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2025/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Môi trường sau khi cấp có thẩm quyền thực hiện chủ trương hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Theo đó, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm là đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường trên cơ sở hợp nhất Cục Lâm nghiệp và Cục Kiểm lâm; Cục Thủy sản và Kiểm ngư là đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường trên cơ sở hợp nhất Cục Thủy sản và Cục Kiểm ngư. Vì vậy, tổ chức và tên gọi của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Hải quan, Kiểm lâm và Kiểm ngư có sự thay đổi so với quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự hiện hành.
Trên cơ sở báo cáo của tổng kết thi hành Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự của các bộ, ngành thì từ khi Luật có hiệu lực thi hành đến tháng 3/2025: Lực lượng Hải quan đã tiến hành điều tra, khởi tố 302 vụ (Tội Buôn lậu (179 vụ); Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (98 vụ); Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (25 vụ)) và sau khi khởi tố hình sự đối với các vụ án trên, cơ quan Hải quan đã chuyển toàn bộ hồ sơ các vụ án trên cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định. Bên cạnh đó, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Kiểm ngư hiện chưa phát hiện, xử lý vụ việc nào hành vi có dấu hiệu tội phạm. Đồng thời, đối với các vụ việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra trong lĩnh vực Lâm nghiệp thì lực lượng Kiểm lâm sau khi khởi tố chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra có thẩm quyền. Như vậy, qua thực tiễn thời gian qua cho thấy các cơ quan Hải quan, Kiểm ngư, Kiểm lâm hầu như không thực hiện thẩm quyền thụ lý điều tra giải quyết toàn bộ vụ án trong vòng 01 tháng, mà chủ yếu tiến hành điều tra ban đầu và chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Ngoài ra, Cơ quan Kiểm ngư hoạt động trên biển, trong khi trụ sở của các cơ quan này lại đóng ở đất liền, không quá xa các cơ quan điều tra. Do vậy, trường hợp các cơ quan này trong lúc làm nhiệm vụ mà phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì chỉ cần tiến hành hoạt động điều tra ban đầu trong vòng 07 ngày, sau đó cần phải chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra. Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành đã có quy định về trường hợp người chỉ huy máy bay, tàu biển khi bắt giữ người thì phải chuyển ngay cho cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên nơi tàu trở về. Việc giao các cơ quan này tiến hành hoạt động điều tra trong vòng 01 tháng cho đến khi kết thúc điều tra là chưa phù hợp với thực tiễn. Các cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư có trụ sở trên đất liền, đóng không xa các cơ quan điều tra. Do vậy, không nhất thiết cần giao thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra trong vòng 01 tháng cho đến khi kết thúc điều tra. Bên cạnh đó, năng lực của cấp trưởng, cấp phó và cán bộ điều tra thuộc các cơ quan này khó đáp ứng đủ yêu cầu của việc điều tra trọn vẹn một vụ án từ khi khởi tố đến lúc chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố.
- Hiện nay, hệ thống Cơ quan điều tra còn cồng kềnh, chồng chéo, việc tổ chức Cơ quan điều tra ở nhiều bộ, ngành (Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) tạo ra nhiều đầu mối trong hệ thống Cơ quan điều tra. Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, cần thiết phải rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng giảm đầu mối của cơ quan điều tra bảo đảm tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Cùng với đó, qua thực tế thi hành các nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định trong Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế nhất định, một số thẩm quyền trong thực hiện các hoạt động tố tụng còn hạn chế và một số quy định còn chưa phù hợp với các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự gây ra những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng trên thực tế.
Với những lý do nêu trên thì việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự là yêu cầu cấp thiết, khách quan, để thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, đồng thời khắc phục hạn chế, bất cập hiện nay, bảo đảm đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác điều tra hình sự trong thời gian tới.
II. MỤC ĐÍCH BAN HÀNH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
1. Mục đích ban hành Luật
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức, bộ máy của Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bảo đảm phù hợp với việc sắp xếp tổ chức bộ máy của các bộ, ngành địa phương.
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để bảo đảm phù hợp với tổ chức bộ máy mới và khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành thời gian qua.
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thẩm quyền của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và về các ngạch Điều tra viên, bảo đảm tính linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra hình sự; bảo đảm cơ chế phân công, phân cấp phù hợp với mô hình tổ chức mới Cơ quan điều tra; đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác điều tra hình sự.
2. Quan điểm xây dựng dự án Luật
- Thể chế hoá quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy Cơ quan điều tra, bảo đảm đồng bộ với quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
- Kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những khó khăn, vướng mắc của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác điều tra hình sự trong tình hình mới; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật quốc tế và thực tiễn tổ chức cơ quan điều tra hình sự của một số quốc gia trên thế giới bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
- Bảo đảm đồng bộ, thống nhất của Luật trong hệ thống pháp luật; phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
1. Báo cáo Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định bổ sung dự án Luật vào Chương trình lập pháp năm 2025 của Quốc hội (trình Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến, thông qua tại Kỳ họp thứ 9 theo trình tự, thủ tục rút gọn).
2. Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tiến hành tổng kết thi hành Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).
3. Xây dựng hồ sơ dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; lấy ý kiến tham gia của các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học đối với dự thảo Luật.
4. Trên cơ sở các ý kiến tham gia, Bộ Công an đã nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Luật và gửi Bộ Tư pháp để thẩm định. Ngày 09/4/2025, Bộ Tư pháp có Báo cáo số 125/BCTĐ-BTP về việc thẩm định đối với Hồ sơ dự án Luật. Ngày 10/4/2025, Bộ Công an đã có Báo cáo số 925/BC-BCA tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp.
5. Ngày 10/4/2025, Bộ Công an có Tờ trình số 162/TTr-BCA trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến về Hồ sơ dự án Luật.
6. Ngày 13/4/2025, Chính phủ đã tổ chức Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 4/2025 cho ý kiến về dự án Luật; trong đó, thống nhất nội dung dự thảo Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (sửa đổi) và giao Bộ trưởng Bộ Công an thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình Chính phủ trình Quốc hội về dự án Luật.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ ÁN LUẬT
1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
1.1. Phạm vi điều chỉnh
Quy định về nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều tra viên và các chức danh khác trong điều tra hình sự; quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát trong hoạt động điều tra hình sự; bảo đảm điều kiện cho hoạt động điều tra hình sự và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
1.2. Đối tượng áp dụng
- Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra; cấp trưởng, cấp phó và cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
2. Bố cục của dự thảo Luật
Dự thảo Luật gồm 09 chương, 55 điều (giảm 18 điều so với Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) (sau đây gọi chung là Luật năm 2015)); trong đó: bỏ 01 chương (Chương IV), 12 điều; gộp 06 điều thành 02 điều; giữ nguyên 11 điều; bổ sung 01 điều; sửa đổi, bổ sung 41 điều; như sau:
2.1. Chương I. Những quy định chung, có 13 điều, bao gồm: Điều 1. Phạm vi điều chỉnh; Điều 2. Đối tượng áp dụng; Điều 3. Nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự; Điều 4. Hệ thống Cơ quan điều tra; Điều 5. Cơ quan điều tra của Công an nhân dân; Điều 6. Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; Điều 7. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra; Điều 8. Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều 9. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều 10. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra; Điều 11. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong hoạt động điều tra hình sự; Điều 12. Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động điều tra hình sự; Điều 13. Những hành vi bị nghiêm cấm.
2.2. Chương II. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra của công an nhân dân, có 04 điều, bao gồm: Điều 14. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Điều 15. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh; Điều 16. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Điều 17. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh.
2.3. Chương III. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, có 05 điều, bao gồm: Điều 18. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Điều 19. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương; Điều 20. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Điều 21. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; Điều 22. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra hình sự khu vực.
2.4. Chương IV. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, có 07 điều, bao gồm: Điều 23. Nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng; 24. Nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của Cảnh sát biển; Điều 25. Nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của Hải quan; Điều 26. Nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của Kiểm lâm; Điều 27. Nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của Kiểm ngư; Điều 28. Nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của các cơ quan khác của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều 29. Nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
2.5. Chương V. Quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra hình sự, có 05 điều, bao gồm: Điều 30. Quan hệ giữa các cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều 31. Uỷ thác điều tra; Điều 32. Quan hệ giữa lực lượng điều tra và lực lượng trinh sát; Điều 33. Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan Công an, Quân đội các cấp đối với hoạt động điều tra hình sự; Điều 34. Trách nhiệm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an.
2.6. Chương VI. Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên và cán bộ điều tra, có 10 điều, bao gồm: Điều 35. Điều tra viên; Điều 36. Tiêu chuẩn của Điều tra viên; Điều 37. Nhiệm kỳ của Điều tra viên; Điều 38. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Điều 39. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên; Điều 40. Những việc Điều tra viên không được làm; Điều 41. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Điều tra viên; Điều 42. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Điều 43. Hạn tuổi phục vụ của Điều tra viên; Điều 44. Cán bộ điều tra.
2.7. Chương VII. Bảo đảm điều kiện cho hoạt động điều tra hình sự, có 04 điều bao gồm các điều: Điều 45. Chế độ, chính sách đối với người làm công tác điều tra hình sự; Điều 46. Bảo đảm biên chế, đào tạo, bồi dưỡng trong công tác điều tra hình sự; Điều 47. Bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ hoạt động điều tra hình sự; Điều 48. Bảo đảm kinh phí cho hoạt động điều tra hình sự.
2.8. Chương VIII. Trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác điều tra hình sự, có 04 điều, bao gồm các điều: Điều 49. Trách nhiệm quản lý về công tác điều tra hình sự; Điều 50. Trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Công an; Điều 51. Trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Điều 52. Trách nhiệm của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
2.9. Chương IX. Điều khoản thi hành có 03 điều, bao gồm các điều: Điều 53. Sửa đổi, bổ sung một số điều của luật liên quan (gồm sửa đổi nội dung thuộc 02 điều của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 và sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024); Điều 54. Hiệu lực thi hành; Điều 55. Quy định chuyển tiếp.
3. Nội dung cơ bản của dự án Luật
3.1. Chương I. Những quy định chung
So với Luật năm 2015, Chương này giữ nguyên 05 điều; bỏ 01 điều; sửa đổi, bổ sung 08 điều như sau:
- Giữ nguyên các điều 3, 9, 10, 11 và 12 dự thảo Luật (các điều 3, 10, 11, 12 và 13 Luật năm 2015).
- Bỏ Điều 7 Luật năm 2015 do không quy định Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong hệ thống Cơ quan điều tra.
- Điều 1 dự thảo Luật: Bỏ cụm từ “bộ máy” tại Điều 1 Luật năm 2015, vì không quy định về bộ máy trong dự thảo Luật để giao cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể nhằm bảo đảm được tính linh hoạt khi có sự thay đổi về tổ chức, bộ máy của các bộ, ngành.
- Điều 2 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 2 Luật năm 2015 theo hướng thay thế “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng” thành “cấp trưởng, cấp phó” của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (để phân biệt với Cơ quan điều tra).
- Điều 4 dự thảo Luật: Bỏ khoản 3 Điều 4 Luật năm 2015; theo đó, không quy định Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong hệ thống Cơ quan điều tra, vì Viện kiểm sát vừa thực hiện quyền công tố, kiểm sát lại vừa thực hiện thẩm quyền điều tra sẽ không bảo đảm được tính khách quan trong quá trình tố tụng hình sự. Đồng thời, bảo đảm mối quan hệ chế ước, kiểm soát lẫn nhau giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.
- Điều 5 và Điều 6 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 5 và Điều 6 Luật năm 2015 về tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân theo hướng:
+ Bỏ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện;
+ Giao Bộ trưởng Bộ Công an quy định về tổ chức bộ máy các cơ quan điều tra của Công an nhân dân; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về tổ chức bộ máy các cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân để bảo đảm sự linh hoạt trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy.
- Điều 7 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Luật năm 2015: Thay thế cụm từ “Tìm ra” thành “Phát hiện” để phù hợp với Điều 6 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Điều 8 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 9 Luật năm 2015 theo hướng: Sửa đổi tên các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư và Công an nhân dân để phù hợp với cơ cấu tổ chức mới của các bộ.
- Điều 13 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 14 Luật năm 2015 theo hướng bổ sung hành vi bị nghiêm cấm làm sai lệch “hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm” để bảo đảm quy định đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan theo quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
3.2. Chương II. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra của công an nhân dân
So với Luật năm 2015, Chương này không chia thành 02 mục; bỏ 03 điều; sửa đổi, bổ sung 04 điều như sau:
- Bỏ các điều 15, 18 và 21 Luật năm 2015; vì đã giao Bộ trưởng Bộ Công an quy định về tổ chức bộ máy các cơ quan điều tra của Công an nhân dân và không tổ chức Công an cấp huyện.
- Điều 14 và Điều 15 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 16 và Điều 17 Luật năm 2015:
+ Bổ sung thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đối với tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân (do bỏ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao nên chuyển thẩm quyền điều tra sang Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an).
+ Bổ sung thẩm quyền chỉ đạo, kiểm tra của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đối với cơ quan của lực lượng An ninh nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và Công an cấp xã.
- Điều 16 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 19 Luật năm 2015 theo hướng bổ sung thẩm quyền chỉ đạo, kiểm tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đối với cơ quan của lực lượng Cảnh sát nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và Công an cấp xã.
- Điều 17 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 20 Luật năm 2015:
+ Sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh theo hướng bổ sung thẩm quyền điều tra vụ án hình sự về các tội phạm thuộc thẩm quyền của Công an cấp huyện trước đây;
+ Bổ sung thẩm quyền chỉ đạo, kiểm tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đối với cơ quan của lực lượng Cảnh sát nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và Công an cấp xã.
3.3. Chương III. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân
So với Luật năm 2015, Chương này không chia thành 02 mục; bỏ 02 điều; giữ nguyên 01 điều; sửa đổi, bổ sung 04 điều như sau:
- Bỏ Điều 22 và Điều 25 Luật năm 2015; vì đã giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về tổ chức bộ máy các cơ quan điều tra của Quân đội nhân dân.
- Điều 20 dự thảo Luật: Giữ nguyên Điều 26 Luật năm 2015.
- Các điều 19, 21 và 22 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung các điều 24, 27 và 28 Luật năm 2015 theo hướng cập nhật các chương, điều của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) về các tội thuộc thẩm quyền điều tra.
- Điều 18 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 23 Luật năm 2015 về bổ sung thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng đối với tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật Hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (do bỏ Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương nên chuyển thẩm quyền điều tra của Cơ quan này này sang Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng).
3.4. Chương IV. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
So với Luật năm 2015, Chương này gộp 02 điều thành 01 điều; sửa đổi, bổ sung 06 điều như sau:
- Điều 28 dự thảo Luật: Gộp Điều 37 và Điều 38 Luật năm 2015 (cơ quan thuộc lực lượng An ninh nhân dân và cơ quan thuộc lực lượng Cảnh sát nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra) để bảo đảm đồng bộ, thống nhất.
- Điều 23 và Điều 24 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 32 và Điều 35 Luật năm 2015 theo hướng cập nhật các chương, điều của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) về các tội thuộc thẩm quyền điều tra, bổ sung Đoàn Trinh sát trong lực lượng Cảnh sát biển là cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Các điều 25, 26 và 27 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung các điều 33, 34 và 36 Luật năm 2015 theo hướng:
+ Cập nhật tên các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cho phù hợp với cơ cấu tổ chức mới của các bộ;
+ Cập nhật các điều của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) về các tội thuộc thẩm quyền điều tra;
+ Bỏ thẩm quyền thụ lý, điều tra, giải quyết toàn bộ vụ án từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát trong thời hạn 01 tháng; đồng thời giữ lại thẩm quyền khởi tố vụ án và tiến hành một số hoạt động điều tra trong thời hạn 07 ngày... Vì thực tiễn thời gian qua cho thấy các cơ quan Kiểm ngư, Cảnh sát biển, Kiểm lâm, Hải quan hầu như không thực hiện thẩm quyền thụ lý điều tra giải quyết toàn bộ vụ án trong vòng 01 tháng, mà chủ yếu tiến hành điều tra ban đầu và chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Bên cạnh đó, năng lực của cấp trưởng, cấp phó và cán bộ điều tra thuộc các cơ quan này khó đáp ứng đủ yêu cầu của việc điều tra trọn vẹn một vụ án từ khi khởi tố đến lúc chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố.
- Điều 29 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 39 Luật năm 2015 theo hướng thay thế “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng” thành “cấp trưởng, cấp phó” theo quy định chung của dự thảo Luật.
3.5. Chương V. Quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra hình sự
So với Luật năm 2015, Chương này sửa đổi, bổ sung 05 điều như sau:
- Chỉnh lý kỹ thuật các điều 30, 31, 32 và 33 dự thảo Luật (các điều 40, 41, 42 và 43 Luật năm 2015) cho phù hợp với nội dung mới của dự thảo Luật.
- Điều 34 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 44 Luật năm 2015 theo hướng thay “Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an” thành “Công an xã, phường, đặc khu” cho phù hợp với định hướng tổ chức cơ quan hành chính cấp cơ sở.
3.6. Chương VI. Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên và cán bộ điều tra
So với Luật năm 2015, Chương này giữ nguyên 03 điều; bỏ 02 điều; gộp 04 điều thành 01 điều; sửa đổi, bổ sung 06 điều như sau:
- Các điều 35, 37 và 39 dự thảo Luật: Giữ nguyên các điều 45, 51 và 53 Luật năm 2015.
- Bỏ Điều 50, 55 Luật năm 2015, vì quy định này giao Bộ trưởng các bộ quy định theo chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực tổ chức cán bộ để bảo đảm sự linh hoạt trong tổ chức bộ máy.
- Điều 36 dự thảo Luật: Gộp các điều 46, 47, 48 và 49 Luật năm 2015 theo hướng quy định các tiêu chuẩn chung của Điều tra viên và giao Bộ trưởng các bộ quy định các tiêu chuẩn của Điều tra viên cho phù hợp với đặc thù về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ.
- Điều 38 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 52 Luật năm 2015 theo hướng quy định “Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thể ủy quyền, cho một Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng về nhiệm vụ được ủy quyền” để bảo đảm tính linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra hình sự của Thủ trưởng Cơ quan điều tra; bảo đảm cơ chế phân công, phân cấp đối với Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra (nhất là khi không tổ chức Công an cấp huyện).
- Điều 40 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 54 Luật năm 2015 theo hướng bổ sung quy định những hành vi bị nghiêm cấm tại quy định của Luật là những việc Điều tra viên không được làm.
- Các điều 41, 42 và 44 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung các điều 56, 57 và 59 Luật năm 2015 theo hướng bỏ quy định liên quan đến Điều tra viên của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Điều 43 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung hạn tuổi phục vụ của Điều tra viên theo quy định mới về tuổi nghỉ hưu của Luật Công an nhân dân, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
3.7. Chương VII. Bảo đảm điều kiện cho hoạt động điều tra hình sự
So với Luật năm 2015, Chương này giữ nguyên 02 điều; sửa đổi, bổ sung 02 điều như sau:
- Điều 46 và Điều 48 dự thảo Luật: Giữ nguyên Điều 61 và Điều 63 Luật năm 2015.
- Điều 45 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 60 Luật năm 2015 theo hướng bỏ quy định liên quan đến Điều tra viên của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Điều 47 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 62 Luật năm 2015 theo hướng bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
3.8. Chương VIII. Trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác điều tra hình sự
So với Luật năm 2015, Chương này bỏ 03 điều; sửa đổi, bổ sung 04 điều như sau:
- Bỏ các điều 67, 68 và 69 Luật năm 2015, vì trách nhiệm của các bộ, ngành đã được quy định chung tại Điều chung (Điều 52 dự thảo Luật) về trách nhiệm của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Các điều 49, 50 và Điều 51 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung các điều 64, 65 và 66 Luật năm 2015 theo hướng bổ sung trách nhiệm “kiểm tra” thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về điều tra hình sự để bảo đảm thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ.
- Điều 52 dự thảo Luật: Sửa đổi, bổ sung Điều 70 Luật năm 2015 theo hướng quy định chung trách nhiệm của các bộ, ngành tại Điều này.
3.9. Chương IX. Điều khoản thi hành
So với Luật năm 2015, Chương này bỏ 01 điều; bổ sung 01 điều; sửa đổi, bổ sung 02 điều như sau:
- Bỏ Điều 73 Luật năm 2015, vì các nội dung giao quy định chi tiết đã được quy định tại các điều luật cụ thể.
- Bổ sung Điều 53 dự thảo Luật theo hướng:
+ Sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 80 và điểm c khoản 4 Điều 82 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về văn bản thông báo việc bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình để bảo đảm quán triệt ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về về hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự liên quan đến hình phạt tử hình, thi hành án tử hình (theo thông báo tại Công văn số 13936-CV/VPTW ngày 25/3/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng);
+ Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 2; khoản 1 và khoản 3 Điều 3; khoản 2 Điều 9; điểm a khoản 1, điểm a khoản 3 và điểm g khoản 3 Điều 11; Điều 15; Điều 18; Điều 22; khoản 2 Điều 23; khoản 1 Điều 27; khoản 2 Điều 29 và khoản 1 Điều 31 Luật Đặc xá năm 2018. Việc sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên để bảo đảm thống nhất với quy định của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) về hình phạt tù chung thân không xét giảm án; phù hợp với mô hình tổ chức mới của Công an nhân dân khi không tổ chức Công an cấp huyện, phù hợp với mô hình tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát và dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án;
+ Sửa đổi, bổ sung các điều 27, 28, 30, 31, 33, 46, 53 và bãi bỏ điều 52 của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024. Việc sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên để bảo đảm phù hợp với mô hình tổ chức mới của Công an nhân dân khi không tổ chức Công an cấp huyện, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, phù hợp với cơ cấu của Chính phủ và việc chuyển giao chức năng về bảo trợ xã hội và phòng, chống tệ nạn xã hội từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sang Bộ Y tế.
- Điều 54 và Điều 55: Sửa đổi, bổ sung Điều 71 và Điều 72 cho phù hợp với quy định của Luật mới thay thế.
* Dự thảo Luật bỏ Chương IV. Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương), xuất phát từ một số lý do như sau:
- Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả quán triệt nguyên tắc “Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính” và đề ra nhiệm vụ “Tiếp tục nghiên cứu, từng bước sắp xếp thu gọn đầu mối cơ quan điều tra đáp ứng yêu cầu công tác điều tra hình sự, phòng, chống tội phạm và phù hợp với tổ chức, hoạt động của viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp”. Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị đã ban hành về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; trong đó quán triệt “Đổi mới, sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Xác định rõ hơn cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền tư pháp và giữa cơ quan, tổ chức trong hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đề ra nhiệm vụ “Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo hướng tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ”.
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW nêu trên, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an đã báo cáo cấp có thẩm quyền kết thúc hoạt động của 694 Cơ quan điều tra Công an cấp huyện, chỉ tổ chức Cơ quan điều tra của Công an nhân dân ở 02 cấp (cấp Bộ, cấp tỉnh), bảo đảm hệ thống Cơ quan điều tra tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay hệ thống Cơ quan điều tra vẫn còn cồng kềnh, chồng chéo, việc tổ chức Cơ quan điều tra ở nhiều bộ, ngành tạo ra nhiều đầu mối trong hệ thống Cơ quan điều tra nên chưa phù hợp với quan điểm chỉ đạo một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện tại Nghị quyết số 18-NQ/TW. Trong khi đó, Cơ quan điều tra của Công an nhân dân thụ lý điều tra gần 99% tổng số vụ việc, vụ án hằng năm; Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền đặc thù cùng với hệ thống các cơ quan tư pháp trong Quân đội. Do vậy, phải cần thiết tiếp tục rà soát, sắp xếp tổ chức hệ thống Cơ quan điều tra theo hướng giảm đầu mối, bảo đảm tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 27-NQ/TW.
- Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Như vậy, theo Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân không có chức năng điều tra. Do đó, việc giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện chức năng điều tra là chưa phù hợp với quy định của Hiến pháp.
- Viện kiểm sát là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng; theo đó, thực hiện chức năng kiểm sát toàn bộ các hoạt động tố tụng hình sự. Trong tất cả các giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát đều có thẩm quyền kiểm sát chặt chẽ, hủy bỏ hoặc không phê chuẩn trong trường hợp các lệnh, quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra; kịp thời phát hiện các sai sót, vi phạm pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng, từ đó kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định.
- Hiện nay, Cơ quan điều tra của Công an nhân dân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân đang được tổ chức thống nhất, chặt chẽ từ trung ương đến địa phương với đầy đủ các điều kiện bảo đảm để đáp ứng hiệu lực, hiệu quả của công tác điều tra hình sự như: việc áp dụng đồng bộ với các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, hệ thống các cơ quan hỗ trợ tư pháp, cơ sở giam giữ…
Trong khi đó, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát chỉ tổ chức ở một cấp (cấp trung ương) và không có các điều kiện bảo đảm cần thiết của cơ quan điều tra hoàn chỉnh như trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.
Do vậy, việc không tổ chức Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát mà chuyển thẩm quyền hiện nay của Cơ quan này cho Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân vừa bảo đảm đúng theo tinh thần chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW, quy định của Hiến pháp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trên thực tế. Đồng thời, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong điều tra, truy tố, xét xử; bảo đảm sự thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự.
VI. DỰ KIẾN, NGUỒN LỰC, ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC THI HÀNH LUẬT
1. Để bảo đảm triển khai thi hành Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (sửa đổi), cần phải bố trí kinh phí theo quy định pháp luật để thực hiện các công việc sau:
- Tuyên truyền, phổ biến Luật sau khi được Quốc hội thông qua (biên soạn tài liệu, tổ chức hội nghị tập huấn trong cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về tổ chức điều tra hình sự, phổ biến đến quần chúng nhân dân).
- Sửa đổi, bổ sung Luật; các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật.
Nguồn kinh phí bảo đảm chi phí nêu trên sẽ được cân đối từ ngân sách Nhà nước và nguồn kinh phí hợp pháp khác; ngân sách nhà nước bảo đảm trên thực tế là không lớn, khả thi và được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
2. Để bảo đảm triển khai thi hành Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (sửa đổi) sau khi được Quốc hội thông qua, về nguồn nhân lực bảo đảm là đội ngũ nhân lực hiện đang được giao thực hiện nhiệm vụ thực hiện công tác điều tra hình sự, không làm tăng tổ chức bộ máy và biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước./.
Bộ Công an
07:50 09/06/2025
Tài liệu tuyên truyền Dự án Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (sửa đổi)
07:57 21/05/2025
Tài liệu tuyên truyền về dự án Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
07:50 20/05/2025
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị trong Công an nhân dân
08:42 19/05/2025
Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2025)
08:10 19/05/2025
BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN